Phát triển hệ thống an sinh xã hội góp phần ổn định và phát triển đất nước
TS. Đàm Hữu Đắc
PCT Thường trực Hội NCT Việt Nam
Trong công cuộc đổi mới, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế-xã hội, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt gần 8%/năm, tỷ lệ nghèo giảm nhanh còn hơn 9 % . Hệ thống chính sách an sinh xã hội từng bước được hoàn thiện, bảo đảm quyền lợi của người dân, đặc biệt quan tâm đến người có công, người nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, đồng bào dân tộc, dân cư vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo. Đối tượng tham gia và thụ hưởng các chính sách an sinh xã hội được mở rộng, đa dạng về hình thức và gia tăng về qui mô; dân cư vùng nông thôn đã bước đầu chủ động phòng ngừa, đối phó, giảm thiểu và khắc phục có hiệu quả những rủi ro để ổn định cuộc sống.
Tuy nhiên,do hậu quả nặng nề của nhiều năm chiến tranh, thiên tai khắc nghiệt liên tiếp xẩy ra, chúng ta phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Chuyển dịch cơ cấu lao động chậm, chất lượng việc làm không cao, đời sống một bộ phận dân cư còn khó khăn, chênh lệch mức sống giữa các vùng, miền, giữa nông thôn và thành thị có xu hướng gia tăng; giảm nghèo nhanh nhưng chưa bền vững; độ bao phủ của hệ thống an sinh xã hội và mức hỗ trợ còn thấp, khả năng tiếp cận của nhiều nhóm đối tượng chưa cao, năng lực phòng, chống và quản lý rủi ro của người dân còn thấp, nguồn lực cho an sinh xã hội còn hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân sách của Nhà nước. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI xác định một trong những nhiệm vụ chủ yếu là: “Tập trung giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo”.Trong điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước giai đoạn hiện nay, chủ trương bảo đảm an sinh xã hội thể hiện tính nhân văn và bản chất tốt đẹp của xã hội,truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Quan điểm nhất quán của Đảng,Nhà nước ta là đi đôi với phát triển kinh tế - xã hội phải bảo đảm An sinh xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất,tinh thần của nhân dân. Chính phủ đã chỉ đạo sát sao các bộ, ngành chức năng phải rà soát, đánh giá, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về người có công với cách mạng và an sinh xã hội, tăng cường hiệu quả và hiệu lực của hệ thống pháp luật; trong đó chú trọng chính sách đặc thù đối với đồng bào dân tộc thiểu số và vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Dù nền kinh tế còn khó khăn cũng phải bố trí kinh phí, nhân lực; tăng cường cơ sở vật chất, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa huy động nguồn lực để thực hiện tốt chính sách xã hội. Tạo điều kiện để người dân nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh, ưu tiên hỗ trợ các đối tượng yếu thế; Phát triển hệ thống an sinh xã hội có trọng tâm trong thời kỳ lạm phát, cần chú trọng đến nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, bao gồm: người nghèo, người khuyết tật, trẻ em, người cao tuổi, người ốm đau, người dân ở các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc miền núi, lao động nông thôn, khu vực phi chính thức, người thất nghiệp, người bị ảnh hưởng của thiên tai và các rủi ro bất khả kháng khác; Xây dựng và thực hiện hệ thống an sinh xã hội hướng tới bao phủ toàn bộ người dân, trước mắt là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương; phát triển hệ thống chính sách an sinh xã hội đa dạng, nhiều tầng lớp, bảo đảm mức sống tối thiểu cho người dân; Phát triển hệ thống an sinh xã hội dựa trên quyền được an sinh của người dân và phù hợp với khả năng ngân sách của Nhà nước nhằm mục tiêu hỗ trợ, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân; Nâng cao năng lực tự vươn lên, thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn của nhóm đối tượng dễ bị tổn thương và khả năng tự an sinh của người dân thông qua các chính sách hỗ trợ gián tiếp để phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững; tăng cường chính sách trợ giúp trực tiếp đối với nhóm đối tượng không có khả năng tự bảo đảm an sinh. Nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện an sinh xã hội, đồng thời mở rộng sự tham gia của các đối tác xã hội thông qua các cơ chế khuyến khích, thu hút sự tham gia của các đối tượng vào cung cấp dịch vụ an sinh xã hội. Đồng thời phát huy vai trò và trách nhiệm của cá nhân, hộ gia đình, người lao động, doanh nghiệp và cộng đồng trong việc thực hiện các mục tiêu an sinh xã hội. Có chủ trương,chính sách trợ giúp, khuyến khích, giải quết cho cho con em gia đình nghèo có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn để tiếp tục đến trường là chủ trương đúng đắn mang tính nhân văn, nhất là những sinh viên nghèo khó học giỏi mong muốn thay đổi cuộc đời. Nhưng thực tế hiện nay nhiều sinh viên gia đình nghèo khó tốt nghiệp khá, giỏi vẫn không xin được việc làm nên có nguy cơ không trả được nợ càng khó khăn thêm. Nhà nước cần có chủ trương giải quyết tận gốc số CBVC làm việc không hiệu quả, trước hết là số kém năng lực, không được đào tạo cơ bản ở các ngành các cấp, trước hết là đội ngũ cán bộ ở xã, phường,thị trấn hiện nay để tạo cơ hội tiếp nhận những sinh viên tốt nghiệp ra trường nhất là những sinh viên nghèo khó học giỏi; giải quyết vấn đề này phải thay đổi căn bản nhận thức của cán bộ chủ chốt của các cấp các ngành mới tạo cơ hội cho những sinh viên nghèo học giỏi, có ý chí không cam chịu đói nghèo ở các vùng miền của Tổ quốc .
Lắng nghe ý kiến của người dân, kiến nghị của các tổ chức xã hội, với sự tham mưu của Bộ ngành chức năng Chính phủ đã ban hành Nghị định 136/2013/ND-CP, ngày 21/10/2013 sửa đổi bổ sung nhiều chính sách trợ giúp xã hội góp phần nâng cao mức sống, giảm thiểu những khó khăn cho đối tượng chính sách xã hội; Chính sách đối với người có công với nước từ Ủy ban thường vụ Quốc hội,Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ đã kip thời sửa đổi các chính sách chế độ đối với Người có công, đặc biệt Hiến pháp 2013 đã được Quốc hội khoá XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua, đây là đạo luật cơ bản thể hiện quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về phát triển kinh tế xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất,tinh thần của nhân dân ta. Tại khoản 2 Điều 59 khẳng định: "Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội ,phát triển hệ thống an sinh xã hội ,có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật,người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác "Tuy vây trong hệ thống chính sách An sinh xã hội cũng còn một số vấn đề đặt ra: Hiện nay độ tuổi hưởng mức trợ cấp BTXH đối với NCT không có lương hưu,Trợ cấp BHXH hàng tháng,trợ cấp xã hội hàng tháng theo mục c, điểm 2 Điều 6 Nghị định 06/2011/NĐ-CP còn cao ,cần sửa đổi cho phù hợp. Bởi những người cao tuổi từ 70 tuổi trở lên hiện nay là nhân chứng lịch sử trong hai cuộc kháng chiến cứu nước, do phải tham gia vào cuộc kháng chiến nên họ không có cơ hội tích luỹ vật chất cho tuổi già nên đời sống gặp nhiều khó khăn. Nếu do điều kiện kinh tế khó khăn chưa giải quyết được đồng loạt thì Chính phủ xem xét giải quyết trước cho những NCT ở miền núi, biên giới, biển đảo, NCT dân tộc ít người, độ tuổi nên giảm từ 80 tuổi theo qui định hiện nay xuống 75 tuổi. Cả nước hiện nay còn gần 100 ngàn NCT chưa được hưởng chính sách BTXH của Nhà nước do họ không còn giấy tờ, hồ sơ liên quan. Việc giải quyết vấn đề này không khó như chính sách đối với người có công, chẳng hạn xác nhận độ tuổi không khó ,xác nhận người không có lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng, trợ cấp xã hội hàng tháng cũng không khó, xác nhận họ thuộc hộ gia đình nghèo cũng không khó chỉ cần các bộ, ngành chức năng thống nhất có văn bản hướng dẫn là thực hiện được, càng chậm trễ bao nhiêu thì nhiều NCT không có cơ hội được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước.
Về giảm giá vé,giá dịch vụ theo qui định của Luật NCT, Điều 5, NĐ06 CP của Chính phủ về cơ bản NCT chưa được hưởng do các Bộ ngành chức năng chưa có sự chỉ đạo sát sao. Rất nhiều di tích lịch sử,danh lam thắng cảnh NCT chưa được giảm giá vé,giá dịch vụ theo qui định. Phải khẳng định đây là chủ trương đúng đắn của Nhà nước nhằm khuyến khích NCT tham gia, mặt khác các di tích lịch sử, các danh lam thắng cảnh của đất nước là công sức, là xương máu của bao thế hệ chiến đấu hy sinh mới dành được, là tài sản chung của đất nước của cha ông để lại người dân nói chung, NCT nói riêng cần được hưởng thụ theo luật pháp của Nhà nước, người được Nhà nước giao quản lý cần tạo điều kiện và thực hiện theo luật pháp không phải do công sức đầu tư xây dựng của họ nên khó dễ cho NCT,nơi nào vi phạm qui định của Nhà nước thì các Bộ ngành chức năng cần xử lý nghiêm minh và thay đổi chủ quản lý;Mô hình Câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau là mô hình hoạt động rất hiệu quả được tổ chực Quốc tế triển khai điểm ở nước ta, được các bộ ngành địa phương đánh giá cao. Chính phủ đã đưa vào chương trình hành động, đặt chỉ tiêu đến năm 2015 tăng thêm 2000 CLB Liên thế hệ tự giúp nhau,năm 2020 tăng thêm 5000 CLB nhưng đến nay các Bộ ngành chức năng vẫn chưa đưa vào kế hoạch nên không triển khai được. Khẳng định đây là mô hình có hiệu quả nhất cần được nhân rộng; Hiện nay còn nhiều chính sách qui định trong Luật NCT,các NĐ,QĐ, Chương trình Hành động Quốc gia về NCT giai đoạn 2012-2020 của Chính phủ chưa vào được cuộc sống do các Bộ ngành chức năng chưa quan tâm, chưa phối hợp để triển khai thực hiện. Chính phủ cần kiểm tra, đánh gia ,qui trách nhiệm rõ ràng cho các bộ ngành chức năng.
Để các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về An sinh xã hội đi vào cuộc sống, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đối tượng chính sách người có công, đối tượng chính sách xã hội, cần thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp:
Thứ nhất, Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách đối với người có công,đối tượng chính sách xã hội.
Trước hết là các cơ quan chức năng, chính quyền ở cơ sở cần theo dõi chặt chẽ tình hình đời sống người có công,đối tượng chính sách xã hội để hỗ trợ kịp thời những gia đình gặp khó khăn, đột xuất, trợ cấp khó khăn đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, người hưởng lương hưu có mức lương thấp; Chủ động đối phó với tình hình thiếu lương thực và khắc phục hậu quả thiên tai tại các tỉnh, thành phố,nhất là những địa phương bị ảnh hưởng nặng nề do thiên tai,nước biển dâng; hướng dẫn các địa phương chủ động bám sát tình hình, tổ chức cứu trợ kịp thời cho những gia đình thiếu đói, sử dụng các nguồn kinh phí của địa phương, nguồn hỗ trợ của Trung ương và các nguồn tài trợ khác đúng mục đích, đúng đối tượng, hiệu quả. Tăng cường các chương trình trợ giúp xã hội để hỗ trợ các thiếu hụt về thu nhập của người nghèo kinh niên và các đối tượng xã hội; đổi mới mô hình và hình thức cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội; nâng cao hiệu quả của công tác thông tin, quản lý và giám sát đối tượng trợ giúp xã hội; nâng cao năng lực của người dân đối phó với rủi ro đột xuất. Tiếp tục hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội và xem xét điều chỉnh mức chuẩn để tính mức trợ giúp xã hội phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội; tạo môi trường pháp lý, hành chính, xã hội cho các đối tượng dễ bị tổn thương tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản và hoà nhập cộng đồng; huy động sự tham gia của cộng đồng, các tổ chức xã hội trợ giúp các đối tượng. Củng cố, quy hoạch và phát triển hệ thống các cơ sở trợ giúp xã hội, bao gồm các cơ sở bảo trợ xã hội, các cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội, các Trung tâm chữa bệnh - giáo dục - lao động và xã hội. Đi đôi với đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất trang thiết bị, đội ngũ cán bộ,nhân viên, kinh phí để nâng cao khả năng tiếp nhận thêm đối tượng vào chăm sóc nuôi dưỡng các đối tượng chính sách xã hội vào các Trung tâm Bảo trợ xã hội của Nhà nước,cần có chính sách khuyến khích các tổ chức cá nhân đầu tư xây dựng các cơ sở chăm sóc nuôi dưỡng đối tượng chính sách xã hội, đặc biệt có cơ chế,chính sách chăm sóc, giúp đỡ tại cộng đồng; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, nhân viên; hỗ trợ nâng cấp, sửa chữa cơ sở vật chất, bổ sung trang thiết bị cần thiết; bảo vệ môi trường trong cơ sở nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng và trợ giúp đối tượng xã hội.Tiếp tục hoàn thiện các chính sách về giáo dục. Triển khai có hiệu quả các chương trình, đề án, dự án về giáo dục; chú trọng đối tượng là người nghèo, người cận nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số; nghiên cứu, xây dựng và triển khai Đề án Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em dưới năm tuổi; Xây dựng mã số an sinh xã hội để phát triển hệ thống thông tin về chính sách an sinh xã hội; xây dựng bộ chỉ số an sinh xã hội quốc gia và bộ cơ sở dữ liệu hộ gia đình để phát triển hệ thống giám sát, đánh giá việc thực hiện chính sách an sinh xã hội; định kỳ hàng năm xây dựng báo cáo quốc gia về an sinh xã hội và báo cáo đối với các nhóm đặc thù, nhất là dân tộc thiểu số và giới; Đẩy mạnh xã hội hóa huy động nguồn lực thực hiện chính sách an sinh xã hội; khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào cung cấp các dịch vụ an sinh xã hội.
Thứ hai, Nhóm giải pháp về giảm nghèo bền vững.
Tiếp tục triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2011 của Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020; Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2012 của Chính phủ về Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững tại các huyện nghèo và Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chính sách hỗ trợ đối với hộ cận nghèo; Tiếp tục thực hiện đồng bộ, lồng ghép các chương trình, chính sách hiện hành có điều chỉnh, bao gồm: (b1) Chính sách hỗ trợ lao động nghèo, người thất nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn có việc làm, thu nhập ổn định và tham gia thị trường lao động; hỗ trợ dân cư nông thôn dễ dàng tiếp cận đến các dịch vụ xã hội cơ bản; (b2) tuyên truyền, hỗ trợ đối với 40% dân số nông thôn hiện nay chưa tham gia bảo hiểm y tế; (b3) bổ sung nhóm đối tượng nghèo kinh niên được hưởng chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên; (b4) Tiếp tục xây dựng, thực hiện Nghị quyết về định hướng giảm nghèo thời kỳ 2011-2020. Củng cố và tăng cường mạng lưới y tế cơ sở, ưu tiên các huyện nghèo, xã nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới và hải đảo bảo đảm mọi người dân tiếp cận được các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản, nhất là đối với bà mẹ và trẻ em dưới 6 tuổi. Tiếp tục triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, nhất là tiêm chủng mở rộng; phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em; phòng, chống lao và HIV/AIDS. Sửa đổi, bổ sung Luật bảo hiểm y tế theo hướng khuyến khích người cận nghèo và người có thu nhập dưới mức trung bình tham gia bảo hiểm y tế; tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về bảo hiểm y tế; Xây dựng mức sống tối thiểu, mức sống trung bình, chuẩn nghèo, cận nghèo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ làm cơ sở xác định các đối tượng và mức chuẩn của các chính sách an sinh xã hội; Đổi mới nội dung hỗ trợ người nghèo; hoàn thiện việc theo dõi, giám sát và đánh giá các chương trình giảm nghèo; xã hội hóa nguồn lực cho xóa đói giảm nghèo; nâng cao năng lực và điều kiện làm việc cho đội ngũ cán bộ cơ sở để đáp ứng được yêu cầu công việc.Thực hiện tốt chính sách hỗ trợ các hộ nghèo về tiền điện và các chính sách mới ban hành để đảm bảo thực hiện chi trả tiền hỗ trợ cho hộ nghèo kịp thời, đúng đối tượng.Tiến tới đổi mới căn bản chính sách trợ giúp xã hội ,giảm dần chính sách hỗ trợ cho không kém hiệu quả,tạo sức ì,trông chờ vào sự giúp đỡ của Nhà nước,xã hội,chuyền dần sang hình thức cho vay,cho mượn không lãi xuất, thậm chí đến thời điểm nhất định thì xóa nợ tạo sự năng động,sáng tạo, ý chí không cam chịu đói nghèo của chính người dân.
Thứ ba, Nhóm giải pháp tăng cường tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho các đối tượng dễ bị tổn thương và vùng đặc thù
Phát triển công tác xã hội trở thành một nghề ở Việt Nam; nâng cao nhận thức của toàn xã hội về nghề công tác xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ, viên chức, nhân viên và cộng tác viên công tác xã hội đủ về số lượng, đạt yêu cầu về chất lượng gắn với phát triển hệ thống cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội tại các cấp. Tăng cường khả năng tiếp cận các chính sách và dịch vụ cho các đối tượng dễ bị tổn thương; góp phần giúp đối tượng thoát nghèo, hoà nhập cộng đồng, xã hội và ổn định cuộc sống. Tiếp tục ưu tiên nguồn lực của Nhà nước đầu tư phát triển các dịch vụ xã hội cơ bản; tăng cường sự tham gia của các đối tác xã hội trong việc cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản các đối tượng dễ bị tổn thương. Phát triển các hình thức chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn dựa vào cộng đồng gắn với hệ thống cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội tại các cấp; nâng cao chất lượng đời sống của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Thứ tư, Nhóm giải pháp hoàn thiện hệ thống chính sách hỗ trợ người dân có việc làm, nâng cao thu nhập và tham gia thị trường lao động
Tiếp tục hoàn thiện Luật việc làm trình Quốc hội; rà soát, sửa đổi, bổ sung các chính sách hỗ trợ tạo việc làm, phát triển thị trường lao động; triển khai có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia Việc làm và Dạy nghề. Nghiên cứu thí điểm và tiến tới nhân rộng đề án chương trình việc làm công. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Luật dạy nghề; cơ chế, chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội; Theo dõi chặt chẽ tình hình biến động lao động trong các doanh nghiệp, đặc biệt là tại các khu công nghiệp, các dự án phải dừng, giãn tiến độ để có các giải pháp kịp thời tạo điều kiện cho người lao động mất việc nhanh chóng tìm được việc làm; theo dõi chặt chẽ tình hình lao động đang làm việc ở nước ngoài, kịp thời đề xuất các giải pháp để đảm bảo quyền lợi hợp pháp và an toàn cho người lao động. Phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động, nâng cao năng lực dự báo và cung cấp thông tin thị trường lao động tại các vùng nông thôn, vùng chuyển đổi cơ cấu đất đai; tổ chức việc làm tạm thời cho người lao động nghèo bị thất nghiệp, thiếu việc làm trong các hộ gia đình nghèo hoặc cận nghèo.Theo dõi tình hình tiền lương, thu nhập của người lao động; nghiên cứu đề xuất giải pháp để cải thiện tiền lương, thu nhập để người lao động bớt khó khăn trong điều kiện lạm phát, giá cả sinh hoạt tăng cao; giảm nguy cơ tranh chấp lao động. Tiếp tục xây dựng và thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về Việc làm và dạy nghề giai đoạn 2011-2015; xây dựng một hệ thống chính sách tín dụng thống nhất trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện các chính sách tín dụng ưu đãi hiện hành. Tập trung triển khai các Đề án dạy nghề hiện hành; triển khai các chương trình, dự án di dân, định canh, định cư cho người dân gắn với điều kiện cụ thể của các vùng, nhằm ổn định cuộc sống cho nhân dân, tạo điều kiện chuyển đổi nghề.
Thứ năm, Nhóm giải pháp hoàn thiện chính sách, hỗ trợ người dân tham gia các loại hình bảo hiểm.
Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật bảo hiểm xã hội theo hướng đa dạng hóa các hình thức bảo hiểm xã hội, mở rộng đối tượng tham gia các loại hình bảo hiểm xã hội, khuyến khích nông dân và người lao động trong khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội; tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật về bảo hiểm xã hội; hoàn thiện cơ chế quản lý, nâng cao hiệu quả và bền vững của quỹ bảo hiểm xã hội; Tổ chức tốt việc thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp nhằm nhanh chóng đưa người lao động trở lại thị trường lao động. Từng bước mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp để đảm bảo mục tiêu an sinh xã hội. Thí điểm chính sách hỗ trợ nông dân tham gia bảo hiểm nông nghiệp nhằm đảm bảo đời sống của người dân và duy trì sản xuất. Nghiên cứu và hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện. Nâng cao nhận thức và ý thức của người dân tham gia bảo hiểm y tế, đặc biệt chú trọng đối với nhóm người lao động trong khu vực phi chính thức, người dân sinh sống ở khu vực nông thôn. Tăng cường tiếp cận dịch vụ bảo hiểm y tế, chất lượng dịch vụ y tế đối với người hưởng dịch vụ bảo hiểm y tế.
Do nền kinh tế đất nước còn khó khăn, hậu quả các cuộc chiến tranh còn nặng nề, do đặc điểm địa lý hàng năm nước ta phải hứng chịu từ 8 đến 10 cơn bão, đặc biệt tiềm lực kinh tế của người dân còn rất khiêm tốn, thu nhập thấp, chưa có tích lũy nhiều về vật chất; đối tượng người có công, chính sách xã hội rất lớn: gần chục triệu gia đình có công, hàng chục gia đình thuộc diện nghèo, cận nghèo ,gần chục triệu triệu người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn,hơn 9 triệu người cao tuổi và nước ta chính thức bước vào giai đoạn già hóa và chuyển sang giai đoạn dân số già với tốc độ nhanh nhất thế giới... Điều đó đòi hỏi Nhà nước phải không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách An sinh xã hội Quốc gia, theo hướng mở rộng độ bao phủ và xã hội hóa, các loại hình Bảo hiểm phải hướng tới toàn dân như BHXH toàn dân, BHYT toàn dân mới đáp ứng nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần của người dân; mở rộng và phát triển các loại hình Bảo hiểm cây trồng, vật nuôi,phương tiện sản xuất kinh doanh, dịch vụ, kể cả vui chơi giải trí mới thỏa mãn nhu cầu xã hội và nhanh chóng khắc phục hậu quả rủi ro. Hệ thống An sinh xã hội phát triển không chỉ đảm bảo đời sống vật chất tinh thần của người dân mà góp phần cho đất nước ổn định và phát triển bền vững□
- Xuân Sơn mãi xuân
- Bảo đảm thực hiện quyền lập hội của công dân
- 12.000 nghìn đoàn viên, thanh niên Thủ đô hát Quốc ca, cùng ghép cờ Tổ quốc
- Trên 12 tỷ đồng ủng hộ người dân vùng mưa lũ
- Hơn 23.500 hộ đồng bào các dân tộc di cư ngoài kế hoạch chưa được sắp xếp vào các dự án quy hoạch
- Vận động cộng đồng tích cực tham gia bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu
- Biến đổi khí hậu không chỉ là thách thức
- Công điện của Thủ tướng chỉ đạo ứng phó, khắc phục hậu quả mưa lũ
- Tình người trong mưa lũ
- Phó Chủ tịch nước thăm hỏi, động viên các gia đình gặp nạn trong mưa lũ tại Quảng Ninh