Nét độc đáo, sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền
Trong toàn bộ di sản Hồ Chí Minh, tư tưởng về phương thức lãnh đạo của đảng cầm quyền là nét độc đáo, sáng tạo của Người. Suốt 24 năm ở cương vị đứng đầu Đảng và Nhà nước, mối quan tâm lớn nhất của Hồ Chí Minh là lo làm sao cho xứng đáng “Đảng ta là một đảng cầm quyền”.
|
|
Theo Hồ Chí Minh, đảng cầm quyền là khẳng định bước ngoặt vĩ đại đánh dấu sự chuyển biến về chất trong vị thế của Đảng ta. Hồ Chí Minh quan niệm, phương thức lãnh đạo của đảng cầm quyền đúng đắn có nghĩa là: Phải quyết định mọi vấn đề cho đúng; phải tổ chức thi hành cho đúng; phải thực hiện mối liên hệ mật thiết với nhân dân, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; phải chọn người và thay thế người cho đúng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương thức lãnh đạo của đảng cầm quyền gồm những nội dung cơ bản sau:
Một là, phương thức lãnh đạo của đảng cầm quyền là quyết định vấn đề cho đúng
Thứ nhất: Đảng cầm quyền phải xây dựng đường lối chính trị đúng đắn. Đường lối chính trị đúng đắn là một vấn đề cốt lõi, sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong sự tồn tại và phát triển của Đảng. Có đường lối chính trị đúng đắn mới làm cho nhân dân giác ngộ về mục tiêu đấu tranh, mới hiểu rõ tình hình cách mạng và mới ý thức rõ được những việc nên làm. Vì thế, việc xây dựng đường lối chính trị trở thành một trong những vấn đề cực kỳ quan trọng của Đảng ta.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện vai trò lãnh đạo chính trị của mình chủ yếu bằng việc đề ra cương lĩnh, đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng. Nếu đường lối chính trị không đúng đắn sẽ là sai lầm nghiêm trọng nhất của Đảng đối với toàn xã hội, với vận mệnh của Tổ quốc và sinh mạng chính trị của hàng triệu đảng viên cũng như toàn thể dân tộc. Có đường lối chính trị đúng đắn làm cho phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân trở thành hành động tự giác. Ngược lại, đường lối chính trị không đúng đắn thì phong trào quần chúng không thoát ra khỏi phong trào tự phát, những cuộc đấu tranh tự phát của quần chúng nhân dân thường không có mục đích rõ ràng, kế hoạch đầy đủ, tổ chức chắc chắn, dẫn đến tập hợp lực lượng rời rạc, địa phương này phong trào lên cao nhưng địa phương khác lại thoái trào và cuối cùng bị thất bại. Thực tiễn kinh nghiệm phong trào cộng sản, công nhân thế giới và trong nước đã minh chứng điều đó.
Hồ Chí Minh với nhiều năm trên cương vị vừa là lãnh tụ của Đảng, vừa là người lãnh đạo cao nhất của Nhà nước, luôn coi trọng xây dựng đường lối chính trị. Người chỉ rõ: "Phải có đường lối cách mạng đúng, có đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo đúng. Đường lối ấy chỉ có thể là đường lối của chủ nghĩa Mác - Lênin được vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của dân tộc. Ở Việt Nam, đường lối ấy chỉ có thể là đường lối của giai cấp vô sản và đảng của nó là Đảng Lao động Việt Nam. Đảng phải thực sự là đội tiên phong dũng cảm và bộ tham mưu sáng suốt của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc"1.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng muốn xây dựng đường lối chính trị đúng đắn, phải dựa trên lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta trong từng thời kỳ cách mạng. Sáng tạo, theo Hồ Chí Minh, đó là yêu cầu quan trọng hàng đầu của các Đảng Cộng sản trong việc áp dụng học thuyết Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của dân tộc mình để xây dựng đường lối chính trị. Để sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, trước hết phải nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, coi đó là gốc, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào xây dựng đường lối chính trị, một vấn đề đặt ra là cần kết hợp với việc tiếp thu kinh nghiệm của Đảng Cộng sản anh em. Vì vậy, Hồ Chí Minh cũng rất chú trọng đến tiếp thu "kinh nghiệm dồi dào của các nước anh em, nhưng chúng ta cũng không thể áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách máy móc, bởi vì nước ta có những đặc điểm riêng của ta"2.
Chủ nghĩa Mác - Lênin mà Hồ Chí Minh lưu ý, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin được vận dụng sáng tạo, không được phép giáo điều. Nếu biến chủ nghĩa Mác - Lênin thành công thức cứng đờ thì đường lối chính trị của Đảng chỉ là sự sao chép, rập khuôn, không chứa đựng khả năng thực thi trong thực tế cuộc sống.
Xây dựng đường lối chính trị đúng đắn theo Hồ Chí Minh còn phải tính đến những điều kiện cụ thể của đất nước và xu thế phát triển của thời đại trong từng giai đoạn hoặc cả một thời kỳ dài. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều"3. Khi học tập lý luận Mác - Lênin phải gắn với tình hình thực tiễn của đất nước. Thực tiễn của cách mạng trong từng thời kỳ trở thành căn cứ cực kỳ quan trọng để Đảng ta hoạch định đường lối, chủ trương. Chính những vấn đề thực tiễn đến lượt nó lại bổ sung cho những vấn đề lý luận Mác - Lênin. Hồ Chí Minh cho rằng: "Lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động"4.
Trong khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin cần phải chú ý phải bổ sung, phát triển và làm phong phú thêm lý luận đó bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn cách mạng nước ta. Hồ Chí Minh cho rằng: "Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông"5.
Thứ hai: Quyết định vấn đề cho đúng đắn, đảng cầm quyền phải có phương pháp, cách thức lãnh đạo. Đảng cầm quyền khi đã có cương lĩnh, đường lối đúng đắn thì Đảng còn phải có kinh nghiệm, đồng thời kết hợp với kinh nghiệm của quần chúng nhân dân. Hồ Chí Minh cho rằng, lãnh đạo phải biết lắng nghe, biết gom góp, so sánh ý kiến của quần chúng, ý kiến của “những người không quan trọng”, để làm người hướng dẫn, lãnh đạo nhân dân. Theo Người, trước hết phải học hỏi nhân dân, phải là học trò của nhân dân. Điều này hoàn toàn phù hợp với tư tưởng của V.I. Lênin cho rằng: Nhân dân có thể giải quyết nhiều vấn đề phức tạp mà một đảng ưu tú cũng chưa giải quyết được; để làm lãnh tụ, làm thầy quần chúng, V.I. Lênin đòi hỏi người Cộng sản phải biết khiêm tốn học hỏi quần chúng. Còn Hồ Chí Minh quan niệm: “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”6. Tổ chức đảng, đảng viên không phải là “bách khoa toàn thư”, nên khi tìm kiếm đường lối, quyết định vấn đề luôn luôn phải hỏi ý kiến của dân.
Sau khi giành được chính quyền, chuẩn bị bước vào giai đoạn kiến quốc, Đảng và Chính phủ chưa có kinh nghiệm, Hồ Chí Minh đã viết bài “Nhân tài và kiến quốc”, đăng trên báo đề nghị nhân dân đưa sáng kiến và kế hoạch xây dựng và phát triển đất nước. Đây là một việc làm độc đáo, mới mẻ của Hồ Chí Minh nhằm kêu gọi người có đức, có tài ra giúp nước. Trong lãnh đạo, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải thực hiện “liên hiệp người lãnh đạo với quần chúng”, lãnh đạo không phải ngồi trong phòng kín để viết khẩu hiệu, chỉ thị, suy nghĩ từ đầu óc, ý muốn chủ quan của mình rồi buộc vào cổ dân mà phải lắng nghe ý kiến của quần chúng, so sánh phân tích, sắp đặt thành hệ thống rồi giải thích cho dân chúng, đó là cách lãnh đạo cực kỳ tốt. Hồ Chí Minh còn nêu ra cách lãnh đạo “liên hợp chính sách chung với chỉ đạo riêng”. Tinh thần cơ bản là người lãnh đạo là phải nắm đường lối, phương hướng chung để chỉ đạo cụ thể và cũng thông qua chỉ đạo cụ thể mà kiểm tra cương lĩnh, đường lối, chính sách đúng hay sai. Người coi đó là một cách vừa lãnh đạo, vừa học tập mà bất kỳ người lãnh đạo nào, nếu không học tập nổi những việc thiết thực, những người thiết thực và những bộ phận thiết thực của cấp dưới để rút kinh nghiệm, thì nhất định không biết chỉ đạo chung cho tất cả các bộ phận.
Hồ Chí Minh còn nêu ra cách lãnh đạo từ dưới lên mà không phải từ trên dội xuống. Người cho rằng, không chỉ trên nhìn thấy vấn đề mà ở dưới cũng nhìn rõ vấn đề. Có thể trên nhìn thấy rộng, nhìn thấy dài, nhưng dưới thì nhìn thấy cụ thể, thấy sâu sắc, là nơi trực tiếp, tiếp xúc với mọi hoạt động của thực tiễn cuộc sống. Người nói: “Dân chúng là người chịu sự lãnh đạo của ta”, cho nên muốn quyết định vấn đề cho đúng không chỉ cần lý luận, kinh nghiệm chung mà phải kết hợp kinh nghiệm của địa phương, của đơn vị, phải chịu sự kiểm soát của dân chúng. Năm 1960, khi về thăm tỉnh Ninh Bình, thấy chỉ tiêu kế hoạch kinh tế không đạt, Người chỉ ra nguyên nhân do từ trên dội xuống, mà không từ dưới đề xuất lên. Bám sát quần chúng, bám sát thực tiễn, học hỏi quần chúng đề ra các quyết định lãnh đạo đó là ý thức, tư tưởng của Hồ Chí Minh và cũng là hoạt động thực tiễn cách mạng của Người.
Để quyết định vấn đề cho đúng, Hồ Chí Minh còn chỉ ra phải “tìm việc chính, việc gấp thì làm trước”. Trong cả nước, một địa phương, một cơ quan, đơn vị lúc này thì vấn đề này nổi lên, lúc khác thì vấn đề khác nổi lên cần phải tìm ra và phải quyết định, khi đã quyết định thì phải thực hành triệt để. Ra quyết định lãnh đạo cần phải chống dập khuôn, máy móc, giáo điều. Hồ Chí Minh yêu cầu, một trong những nguyên tắc lãnh đạo là: Chớ khư khư theo sáo cũ, luôn luôn phải theo tình hình thiết thực của dân chúng nơi đó và lúc đó, theo trình độ giác ngộ của dân chúng, theo sự tình nguyện của dân chúng mà tổ chức họ.
Để quyết định vấn đề cho đúng, Hồ Chí Minh yêu cầu lãnh đạo phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, phải “nghiên cứu kinh nghiệm đến gốc”, thực hiện một chủ trương gì dù thành công hay thất bại cũng tổ chức rút kinh nghiệm, phải tìm ra nguyên nhân vì sao thắng lợi, vì sao thất bại, rút ra bài học, đó là “chìa khóa” cho việc giải quyết thành công các vấn đề.
Hai là, phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền là phải tổ chức thi hành cho đúng
Hồ Chí Minh cho rằng, khi có cương lĩnh, đường lối, chính sách đúng là nguồn gốc của thắng lợi, song từ nguồn gốc đến thắng lợi thực sự còn phải tổ chức, phải đấu tranh. Do đó, lãnh đạo còn phải “tổ chức thi hành cho đúng”. Trong quan niệm của Người, lý luận có “sức mạnh định hướng”. Xuất phát từ thực tiễn, bằng phương pháp luận khoa học với những phương thức lãnh đạo đúng, Đảng ta và Hồ Chí Minh xác định được “đường đi”, “phương hướng” của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ 1945 - 1954 là: Kháng chiến thắng lợi, xây dựng dân chủ mới, để tiến lên chủ nghĩa xã hội. “Phương hướng đã định, ta nhằm vào phương hướng ấy mà đi, thế nào ta cũng đi tới đích”7. Vấn đề còn lại là tổ chức thực hiện như thế nào? Là bằng mọi cách để ai đi nhầm đường thì chúng ta giúp họ đi vào con đường chính…Thấy người khác đi xiên, đi sai, ta ra sức giúp họ đi theo đường thẳng, đường đúng.
Quan điểm của Hồ Chí Minh là lãnh đạo phải có kế hoạch. Đối với công việc “phải có kế hoạch bước đầu làm thế nào? Bước thứ hai làm thế nào?. Yêu cầu kế hoạch phải thiết thực, phải làm được. Chớ làm kế hoạch đẹp mặt, to tát, kể hàng triệu nhưng không thể thực hiện được. Có những kế hoạch lớn như sau khi thắng lợi, Đảng phải có kế hoạch phát triển kinh tế - văn hóa, kế hoạch phát triển 5 năm, 3 năm, hàng năm. Trung ương họp bàn thông qua, và có những kế hoạch cụ thể để thực hiện từng việc. Kế hoạch không được nhiều việc quá, chỉ tiêu không cao quá và không sao chép lẫn nhau, có như vậy mới thiết thực, không chủ quan.
Có cương lĩnh, đường lối, có kế hoạch, lãnh đạo cần phải truyền đạt tới mọi đảng viên và biến quyết tâm của Đảng thành quyết tâm của quần chúng. Sau khi có nghị quyết, chúng ta cần phải tổ chức việc phổ biến nghị quyết trong Đảng, rồi phổ biến những điểm cần thiết trong nhân dân.Việc phổ biến nghị quyết này là một việc rất quan trọng. Trong nội bộ phải đấu tranh tư tưởng, mới đi đến nhất trí được. Chúng ta phải hết sức kiên nhẫn để đạt được sự nhất trí trong Đảng. Nội bộ có nhất trí thì nghị quyết mới thực hiện được. “Việc phổ biến một số quyết định ở trong các tầng lớp nhân dân cũng sẽ gặp khó khăn. Chúng ta phải kiên quyết thuyết phục để tranh thủ sự đồng tình nhất trí của nhân dân với nghị quyết của Đảng ta”8. Theo đó trong Đảng phải phổ biến toàn bộ nghị quyết, còn trong nhân dân thì chỉ đạo của Người là “phổ biến những điểm cần thiết”. Về hình thức phổ biến thì tùy điều kiện để vận dụng nhưng cũng có thể “khai hội giải thích”, “truyền đơn”, “khẩu hiệu”, “ca kịch”… Khi phổ biến nghị quyết của Đảng, phải để đảng viên, quần chúng thảo luận, tranh luận, không để tình trạng chỉ thị của Trung ương, cán bộ chỉ đưa ra giảng như thầy giáo giảng bài, công nhân chỉ ngồi nghe, ít đi sâu thảo luận. Phổ biến nghị quyết của Đảng trong nhân dân phải nâng cao tính thuyết phục, giải thích, tránh gò ép, mệnh lệnh, cưỡng bức. Thuyết phục quần chúng bằng lý lẽ nhưng quan trọng hơn là nêu gương. Từ đặc điểm nước ta là một nước mà “một tấm gương sống có giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền” cho nên Người yêu cầu các tổ chức đảng và đảng viên phải gương mẫu, đảng viên phải đi trước để “làng nước theo sau”, đảng viên nói thì phải làm. Đề ra chính sách, vạch ra kế hoạch, đảng viên phải thi hành trước, phải thi hành đúng. Việc tuyên truyền giải thích phải làm nhiều lần, đơn giản, thiết thực, nghe rồi làm được. Tốt nhất là miệng nói tay làm, làm gương cho người khác bắt chước.
Ba là, phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền phải thực hiện mối liên hệ mật thiết với nhân dân, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân
Nguyên lý này được quy định bởi vai trò và sức mạnh của chính nhân dân. Trong chiều sâu tư tưởng Hồ Chí Minh, dân là gốc của nước, là nguồn sức mạnh, là lực lượng to lớn của Đảng, của cách mạng. Trí tuệ và năng lực sáng tạo của Đảng đều bắt nguồn từ quần chúng nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Hồ Chí Minh khẳng định: "Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân"9. Những quan niệm đó càng làm sâu sắc tình cảm của Hồ Chí Minh đối với nhân dân, đối với dân tộc. Nó trở thành tư tưởng nền tảng chỉ đạo mọi hoạt động lãnh đạo cách mạng của Hồ Chí Minh. Trong đó, Người đặc biệt quan tâm, giáo dục, rèn luyện cho Đảng phải luôn giữ vững, củng cố và không ngừng tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với dân được thể hiện: Mọi hoạt động của Đảng đều nhằm phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc, vì, cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc của nhân dân. Đảng thực sự tỏ rõ là đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp, của nhân dân lao động và của dân tộc. Muốn cho dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh… Nói tóm lại, hết thảy những việc có thể nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân phải được ta đặc biệt chú ý. Phải gần dân, tin dân, dựa vào dân, học hỏi dân. Mối liên hệ mật thiết của Đảng với dân không chỉ thể hiện ở mục đích hoạt động của Đảng. Nó còn được biểu hiện sinh động ở phương pháp, cách thức hoạt động của Đảng trong quan hệ với dân, nhất là hoạt động của các cơ sở đảng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên tại cơ sở. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Mỗi cán bộ chính quyền và đoàn thể cần phải: luôn luôn gần gũi nhân dân. Ra sức nghe ngóng và hiểu biết nhân dân. Học hỏi nhân dân. Lãnh đạo nhân dân bằng cách tuyên truyền, giải thích, cổ động giáo dục, tổ chức nhân dân, dựa vào nhân dân để thực hiện nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Bốn điều ấy phải đi song song với nhau. Vì không gần gũi dân thì không hiểu biết dân. Không hiểu biết dân thì không học hỏi được kinh nghiệm và sáng kiến của dân"10. Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn cán bộ, đảng viên, đối với dân phải tuyệt đối không được lên mặt "quan cách mạng", "ra lệnh cho oai", phải "khiêm tốn, không được kiêu ngạo" … chỉ có như vậy mới đoàn kết, lãnh đạo được nhân dân thì Đảng mới được dân tin, dân phục, dân yêu, mới làm tròn nhiệm vụ của người lãnh đạo. Cán bộ và đảng viên phải thật sự trong sạch "cần, kiệm, liêm, chính" để cho dân tin, dân phục, dân yêu. Phải hoan nghênh ý kiến phê bình của nhân dân, chân thành tiếp thu phê bình và quyết tâm sửa chữa. Thực tế cho thấy, nếu không chân thành tiếp thu ý kiến phê bình của dân, không chịu sửa chữa sai lầm, khuyết điểm thì sẽ đánh mất lòng tin của dân, dân sẽ ca thán thậm chí bất bình. Khi ấy, Đảng sẽ trở nên xa lạ với dân và tất nhiên khó lãnh đạo được nhân dân.
Bốn là, phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền là phải chọn người và thay người cho đúng
Theo Hồ Chí Minh, mọi việc thành bại của cách mạng đều liên quan đến vấn đề cán bộ. Vì, cán bộ là cái gốc của mọi công việc và “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”11. Do vậy, đảng cầm quyền phải lựa chọn, bố trí cán bộ. Lựa chọn, bố trí cán bộ được xem là một khâu quan trọng trong toàn bộ chính sách cán bộ đối với đảng cầm quyền. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Người nào có năng lực làm việc gì, thì đặt vào việc ấy. Nếu dùng không đúng, người giỏi nghề thợ mộc thì giao cho việc thợ rèn, người giỏi nghề rèn thì giao cho việc thợ mộc, như thế thì hai người đều thất bại cả hai”12.
Trong việc sử dụng cán bộ, Hồ Chí Minh rất chú ý đến việc cất nhắc, đề bạt cán bộ một cách đúng đắn. Cất nhắc, đề bạt, theo quan điểm của Người, là “vì công tác, vì tài năng” chứ không thể “vì lòng yêu ghét, vì thân thích, vì nể nang”. Nếu làm như vậy thì “nhất định không ai phục, mà lại gây nên mối lôi thôi trong Đảng”. Từ đó, Người đã đi đến kết luận: “Như thế là có tội với Đảng, có tội với đồng bào”. Việc cất nhắc, đề bạt cán bộ ở những cương vị phụ trách, lãnh đạo phải thận trọng chính xác, vì đối với những người đó, phạm vi phụ trách càng rộng, chức vị càng cao, quyền hạn càng lớn thì tác động ảnh hưởng càng nhiều. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã lưu ý: “Nếu cất nhắc không cẩn thận, không khỏi người bô lô ba la, chỉ nói mà không biết làm vào những địa vị lãnh đạo. Như thế thì rất có hại”. Để sử dụng cán bộ được tốt, Đảng phải kiểm tra giúp đỡ cán bộ kịp thời. Làm tốt thì biểu dương khen thưởng, làm dở thì chỉ bảo hướng dẫn, có khuyết điểm thì nhắc nhở phê bình, có sai lầm thì tùy mức độ mà xử phạt thích đáng. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lầm lỗi có việc to, việc nhỏ. Nếu nhất luật không xử phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại”13. Việc lựa chọn, bố trí cán bộ không chỉ trong hệ thống tổ chức của Đảng mà cả trong hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đồng thời, Hồ Chí Minh luôn quan tâm giáo dục nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, chống cho được những thói hư, tật xấu, sự thoái hoá, biến chất trong điều kiện đảng cầm quyền. Người luôn day dứt, trăn trở, thậm chí lo lắng trước các căn bệnh của chủ nghĩa cá nhân, nhất là những bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu, có nguy cơ đưa Đảng đến nguy cơ thoái hoá, biến chất, căn bệnh này theo Hồ Chí Minh là "giặc nội xâm", là kẻ thù nguy hiểm. Bởi vì, nó không mang gươm, súng mà nó nằm ngay trong các tổ chức của ta để làm hỏng việc của ta. Người đã cảnh báo căn bệnh này ngay từ khi đất nước ta còn rất nghèo, từ khi cán bộ đang còn "ba cùng", đồng cam cộng khổ với nhân dân. Với tầm nhìn xa về tương lai, Hồ Chí Minh sớm phát hiện thấy những thói hư, tật xấu đã nảy sinh trong không ít cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền, thấy rõ sự cám dỗ của quyền lực có thể làm cho con người hư hỏng, thoái hóa, biến chất rất nhanh chóng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên và nhân dân phải rèn luyện đạo đức cách mạng: "Cần, kiệm, liêm, chính" kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, gột rửa chủ nghĩa cá nhân. Bởi vì, chủ nghĩa cá nhân "nó là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư, nết xấu như: Lười biếng, suy bì, kiêu căng, kèn cựa, nhút nhát, lãng phí, tham ô, nó là kẻ thù hung ác của đạo đức cách mạng, của chủ nghĩa xã hội"14. Hồ Chí Minh đã dự báo một nguy cơ đó là chủ nghĩa cá nhân không dừng ở một người, một cá nhân mà có thể lây lan biến chất tới cả một tập thể, một tổ chức. Để khắc phục những căn bệnh ấy, Người chỉ rõ, phải thường xuyên tiến hành tự phê bình và phê bình một cách chân thành, thẳng thắn; phải tăng cường kiểm tra, kiểm soát; phải giữ gìn kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước thật nghiêm minh. Đối với cán bộ, đảng viên, Người đòi hỏi phải ra sức học tập, tu dưỡng đạo đức để nâng cao trình độ, phẩm chất, làm tròn trách nhiệm là người lãnh đạo, để không biến “đầy tớ của nhân dân” thành “quan nhân dân”. Người chỉ rõ: "Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định ngày hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân"15. Thực tế điều này đã xảy ra và trở thành tai họa của nhiều Đảng Cộng sản ở nhiều quốc gia. Ngay ở nước ta cũng đã có không ít trường hợp kể cả cá nhân và tập thể đã rơi vào tình trạng này.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phương thức lãnh đạo của đảng cầm quyền là một việc làm hết sức quan trọng và cấp thiết. Trong thời điểm hiện nay lại càng quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết. Để thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng phải thấm nhuần và quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về phương thức lãnh đạo của đảng cầm quyền, nhằm xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh./.
---------------------------------
1. Hồ Chí Minh toàn tập, t.14, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr.608.
2. Sđd, t.11, tr.97.
3. Sđd, t.11, tr.97.
4. Sđd, t.11, tr.95.
5. Sđd, t.11, tr.95.
6. Sđd, t.5, tr.335.
7. Sđd, t.6, tr.15.
8. Sđd, t.10, tr.452.
9. Sđd, t.6, tr.232.
10. Sđd, t.6, tr.432.
11. Sđd, t.5, tr.280.
12. Sđd, t 6, tr.119.
13. Sđd, t 5, tr.324.
14. Sđd, t.13, tr.90.
15. Sđd, t.15, tr.672.
Thạc sĩ Nguyễn Danh Phú.
- Kỷ niệm 90 năm Ngày Truyền thống Công tác dân vận của Đảng (15/10/1930 - 15/10/2020): Phát huy truyền thống, đổi mới và nâng cao chất lượng công tác dân vận trong thời kỳ mới
- Giá trị thời đại Lời kêu gọi Thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Công tác chăm sóc thương binh, liệt sĩ theo tư tưởng Hồ Chí Minh
- Vị trí, vai trò của người cao tuổi trong tư tưởng Hồ Chí Minh
- Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”
-
Nhân kỷ niệm 91 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6/1925 - 21/6/2016)
Học tập và làm theo đạo đức Bác Hồ để là người cầm bút chân chính
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Người cao tuổi Việt Nam
- Công tác dân vận luôn là một nhiệm vụ quan trọng
- Ông Mai Đính học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh